quy trình làm gốm sứ

Có giấy phép đăng ký kinh doanh, cửa hàng gốm sứ mới được hoạt động. Chuẩn bị thủ tục gồm những giấy tờ sau: Giấy phép kinh doanh cửa hàng gốm sứ, đăng ký kinh doanh cá thể. Nội dung ghi rõ tên và địa chỉ cụ thể của cửa hàng, lĩnh vực kinh doanh, số vốn kinh doanh. Bản sao CCCD/CMND hoặc hộ chiếu của chủ cửa hàng, chủ hộ kinh doanh. Hôm nay, chúng tôi sẽ dẫn các bạn đi tìm hiểu về quy trình sản xuất Gốm Sứ và tại làng Cổ gốm sứ Bát Tràng. -Bước đầu tiên chính là chọn nguyên liệu làm lên sản phẩm Gốm Sứ, ở Bát Tràng có câu "Nhất liệu, nhì nung, tam hình, tứ trí" vì vậy việc chọn đất là vô cùng quan trọng. Abstract. KỸ THUẬT SẢN XUẤT VẬT LIỆU GỐM SỨ được biên soạn làm giáo trình đào tạo sinh viên chính quy ngành Silicat, Khoa Công nghệ Vật liệu. Để hiểu rõ nội dung trình bày trong tài liệu, sinh viên cần nắm vững các môn học trước gồm: "Hóa lý Silicat; Quá trình và Tạo dáng cho sản phẩm gốm sứ Cách tạo dáng gốm Bát Tràng là sử dụng bàn xoay cùng với đôi tay khéo léo để tạo dáng gốm. Trong khâu tạo dáng này, thợ gốm sử dụng lối "vuốt tay, be chạch" trên bàn xoay. Thợ làm gốm ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn sau đó sử dụng chân quay bàn xoay và sử dụng tay vuốt đất nhằm tạo dáng mặt hàng theo ý muốn. Phát triển dòng gốm sứ Đông Triều lên một trình độ cao hơn, nghệ nhân Lê Trọng Mỹ còn chế tác thành những sản phẩm điêu khắc gốm. Đến nay, ông Mỹ đã có một số tác phẩm điêu khắc được trao giải thưởng như: "Mẹ con", "Mũ rơm đi học", "Sau giờ trực materi tik kelas 3 sd semester 1. Tìm hiểu ➡️ Quy trình sản xuất gốm sứ Công nghiệp 🏆✅ Và những Bí Quyết để tạo nên những sản phẩm Gốm Sứ Bát Tràng độc đáo ✅ Mang chất lượng hàng đầu trên thị trường như hiện nay Gốm sứ là những sản phẩm đã có từ lâu đời và đã gắn liền trong nếp sống của người Việt Nam ta, trải qua một đoạn thời gian khó khăn bởi sự xâm lược của những sản phẩm bằng nhựa, hợp kim,... Cho đến ngày nay, gốm sứ vẫn giữ vững được vị thế của mình và ngày càng khẳng định hơn giá trị không thể thay thế của nó. Lí do cho sức mạnh này phải kể đến đầu tiên là do chất lượng ổn định của nó đối với sức khoẻ con người và đóng vô cùng tốt vai trò của một “Vật chứa” khi không gây ôn nhiễm môi trường lại không làm biến đổi đi bản chất và hương vị của thức ăn, nước uống. Thế nhưng để làm nên một sản phẩm gốm sứ vô cùng đẹp mắt và chất lượng, một cục đất sét phải trải qua những giai đoạn gì? Ngay sau đây bạn hãy cùng với SanGia VN khám phá quy trình sản xuất gốm sứ công nghiệp và gốm thủ công Bát Tràng vô cùng nổi tiếng nhé! Quy trình sản xuất gốm sứ công nghiệp Đáp ứng cho nguồn cung hàng triệu sản phẩm mỗi năm, các doanh nghiệp gốm sứ dần chuyển mình từ hướng sản xuất thủ công sang sản xuất công nghiệp với máy móc, dây chuyền vô cùng hiện đại để đảm bảo nguồn cung thị trường. Một quy trình công nghiệp sản xuất ra các sản phẩm gốm sứ thường sẽ phải trải qua 8 bước tuần tự dưới đây Bước 1 Kiểm tra chất lượng đất và nguyên liệu Đất sét là thành phần cốt lõi và quan trọng nhất của một sản phẩm gốm sứ, chất đất tốt thì mới tạo nên một sản phẩm chất lượng. Vì vậy nên bước đầu tiên người ta luôn phải nghiên cứu thật kỹ, kiểm tra kỹ chất lượng của đất và các nguyên liệu để làm gốm. Xem thêm ► So sánh gốm và sứ khác nhau như thế nào? ► Vì sao Gốm Sứ Minh Long là lựa chọn hàng đầu? ► Tìm hiểu Gốm sứ Bình dương - Công ty Gốm sứ tại Bình dương ► Lịch sử hình thành và phát triển của Đồ gốm sứ Trung Quốc Bước 2 Thiết kế mẫu mã Trước hết, người ta sẽ phác hoạ ý tưởng của mình lên giấy và sau đó mới mang nó lên mô hình 3D trên máy tính xem nó có phù hợp với kiểu dáng sản phẩm hay không. Đây là cách để xem mô hình sản phẩm một cách tổng quát nhất. Từ bản vẽ này, người ta sẽ bắt đầu định đoạt mức nguyên liệu cằn phải có để sử dụng cho sản phẩm. Đây là một bước vô cùng quan trọng giúp kiểm soát được chi phí sản xuất một cách tối ưu và dự đoán giá thành của sản phẩm chính xác hơn. Bước 3 Tạo khuôn Sử dụng máy phay CNC để tạo khuôn thạch cao, giúp cho sản phẩm có độ chính xác tuyệt đối so với việc tạo khuôn bằng tay. Xem thêm ► Cách vệ sinh những Sản phẩm Gốm sứ hay cho Gia đình bạn ► Men gốm sứ là gì? Các loại men gốm Bát Tràng nổi bật ► Giới thiệu Gốm Sứ Minh Châu và những sản phẩm bán chạy 1 ► Top 12 thương hiệu Gốm sứ làm Quà tặng nổi tiếng tại Việt Nam Bước 4 Tạo hình bằng phương pháp dập bột Tạo hình cho đất sét theo bản vẽ Bước 5 Nhúng men tự động bằng máy Bước 6 In logo nhà sản xuất Để đánh dấu đó là sản phẩm của doanh nghiệp mình, việc in logo ở đáy sản phẩm là công đoạn hầu hết các cơ sở sản xuất đều không bỏ qua. Xem thêm ► Đồ Gốm sứ Bát Tràng tại TPHCM - Những thông tin hữu ích ► Ấm Tử Sa là gì? Kinh nghiệm mua Bộ Ấm Trà Tử Sa ► Bộ ấm chén Minh Châu Nơi bán Bộ Ấm Trà Minh Châu tại TPHCM ► Hướng dẫn cách sử dụng Đèn xông tinh dầu gốm sứ Bát Tràng Bước 7 Nung nhiệt độ cao Công đoạn đốt lò, nung sản phẩm là một công đoạn được quản lý vô cùng chặt chẽ và đòi hỏi độ chính xác cao. Bởi lẽ đây là công đoạn cực kỳ quan trọng, có thể nói là quan trọng nhất quyết định nên chất lượng của một sản phẩm gốm sứ. Bước 8 Kiểm tra sản phẩm Độ bền cơ học Thực hiện một loạt những thử nghiệm về độ bền để đánh giá một cách khách quan nhất về chất lượng thực của sản phẩm. Kiểm tra độ sốc nhiệt Kiểm tra độ sốc nhiệt của sản phẩm gốm sứ là một việc cực kì quan trọng bởi đây là sản phẩm tiếp xúc với nhiệt nhiều. Đây là một trong những yếu tố được khách hàng quan tâm nhất khi mua những sản phẩm gốm sứ như chén, dĩa, tô,... Kiểm tra chất lượng men Chất lượng men được đánh giá bằng cách vật nhọn để thử trên bè mặt sản phẩm, nếu men không trày thì là men tốt. Xem thêm ► TOP 12 Cửa hàng Gốm Sứ Tại TPHCM giá rẻ uy tín chất lượng ► Tinh hoa Gốm sứ Việt Nam - Sự phát triển từ xưa đến nay ► Công ty gốm sứ Minh Long - niềm tự hào của gốm sứ Việt Nam ► Nồi sứ dưỡng sinh Minh Long – Món đồ mỗi Nhà cần phải có Quy trình sản xuất gốm sứ Bát Tràng thủ công Quy trình sản xuất gốm Bát Tràng để tạo ra những sản phẩm thủ công vô cùng tinh xảo và đẹp mắt là tò mò của rất nhiều người. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp đến bạn toàn bộ quy trình sản xuất gốm sứ Bát Tràng thủ công để giải đáp cho sự tò mò đó nhé! Chọn đất làm gốm Đất sét tạo nên những sản phẩm gốm sứ Bát Tràng là loại đất sét có màu trắng với tính dẻo cao, hạt siêu mịn và chất đất không tan trong nước. Xử lý, pha chế đất làm gốm Đất sét trong tự nhiên bị lẫn khá nhiều tạp chất cho nên thường chúng sẽ được xử lý loại bỏ tạp chất để thu về nguồn đất sét nguyên chất với độ mịm tốt nhất. Sau khi đất đã đọc lọc xong tạp chất, đất sét sẽ được pha chế với những hợp chất cần thiết, tuỳ theo yêu cầu của mỗi loại gốm mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo nên sản phẩm chất lượng nhất. Xem thêm ► Tổng hợp những Bộ ấm trà Bát Tràng gốm sứ Cao cấp ► Làng Gốm Bát Tràng và những điều bạn chưa biết! ► Tìm hiểu Gốm sứ Nhật Bản - Địa điểm Mua Gốm Nhật tại TPHCM ► Giá các bộ ấm chén Bát Tràng Cao Cấp nhẩt hiện nay Tạo dáng sản phẩm Phương pháp tạo dáng sản phẩm thủ công hoàn toàn bằng tay bằng việc kết hợp giữa bày tay cùng với bàn xoay để tạo nắn nên dáng gốm. Với đôi tay điệu nghệ và những động tác vuốt đất uốn nắn, người thợ làng nghề sẽ tạo ra được hình dáng sản phẩm theo ý muốn. Phơi sấy và sửa hàng mộc Sau khi tạo dáng gốm xong, người ta tiến hành phơi khô gốm ở nơi khô ráo để làm bốc hơi nước. Xem thêm ► 706+ mẫu Quà tặng Doanh nghiệp HCM cho năm 2020 ► 101+ bộ Ấm chén Minh Long đẹp giá rẻ nhất 2020 ► 109+ Bộ Ấm chén – Bộ ấm Trà Quà tặng in logo giá rẻ siêu đẹp ► 231+ mẫu quà tặng Gốm sứ bán chạy nhất VN Trang trí hoa văn Thợ gốm trang trí sản phẩm bằng cách sử dụng bút lông vẽ trực tiếp các hoa văn hoạ tiết trang trí theo ý muốn. Tuỳ theo dáng gốm mà người thợ sẽ vẽ những hoa văn với những đừng nét uống lượn phù hợp nhất giúp tôn lên dáng gốm. Chế tạo men Men được chế tạo theo phương pháp thủ công là phuong pháp ướt. Người ta sẽ khuấy trộn tất cả những nguyên liệu làm men lại với nhau và trộn hoà với nước. Sau khi cho nó lắng xuống, họ sẽ loại bỏ phần nước ở trên và cặn bã ở phía dưới đáy. Họ sẽ chỉ lấy phần ở giữ để làm men gốm. Xem thêm ► 241+ quà tặng Nhân viên ý nghĩa và bất ngờ nhất ► 203+ mẫu quà tặng Cao cấp giao tận nơi cho bạn ► 223+ quà tặng Tân gia ý nghĩa giao hàng tận nơi ► 112+ Mẫu Đĩa sứ CK ChuanKuo giá sỉ cho nhà hàng của bạn Tráng men sản phẩm gốm sứ Nung sản phẩm gốm sứ Nung gốm sứ là công đoạn quan trọng nhất trong quy trình sản xuất gốm Bát Tràng. Nhiệt độ nung sẽ được điều chỉnh từ cao nhất đến thấp dần trong suốt quá trình nung sao cho hợp lý nhất. Sau khi nung xong họ sẽ bắt đầu quá trình làm nguội thành phẩm trong vòng 2 ngày 2 đêm và chỉnh sửa những khuyết tật cuối cùng trước khi đem ra thị trường Xem thêm ► BST 112+ Bộ quà tặng Gốm sứ chất lượng nhất 2020 ► 63+ Bộ Chén dĩa sứ đẹp làm Quà tặng khách hàng ► Những Bộ Ấm chén Minh Châu giá chỉ từ 200k làm Quà tặng ► 189+ mẫu quà tặng cho Công ty Đối tác Thông tin liên hệ Công ty Quà Tặng Doanh Nghiệp SanGia VN ► Địa chỉ 316 Lê Văn Sỹ, Phường 1, Quận Tân Bình, TPHCM ► Điện thoại 0915 039 109 Zalo ► Email Sales ► Website Vui lòng trích rõ nguồn từ SanGia VN khi sử dụng bài viết Skip to content 12 Juni 2023 Hello My Friends aowkaokwoakwoa EVAN EDUCATION Newsletter Random News Laman Contoh Cari untuk Headlines Hello My Friends aowkaokwoakwoa 8 jam ago8 jam ago Home404 Not Found 404 Not Found It looks like nothing was found at this location. Maybe try a search? Go back to home Quy trình sản xuất gốm sứ Bát Tràng, người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men và cuối cùng là nung tâm phẩm. Công việc ấy từ đời này sang đời khác cứ lặp đi lặp lại không chỉ ở một gia đình, một dòng họ, một làng quê mà ở khắp mọi nơi có nghề làm gốm. Quy trình sản xuất gốm sứ thủ công tại làng gốm Bát Tràng Tuy thế ở mỗi một làng gốm, vùng gốm, quy trình lao động kỹ thuật này đã nằm được đúc kết tại thành những phong cách truyền thống riêng và những phong cách truyền thống riêng ấy thường được thể hiện đầy đủ trọn vẹn ở mỗi công đoạn làm việc cụ thể. Quá trình tạo cốt gốm, phôi gốm Quá trình tạo cốt gốm, phôi gốm Chọn đất Quá trình xử lý, pha chế đất tạo phôi gốm Bể đánh Bể lắng Bể phơi Bể ủ Quá trình tạo dáng sản phẩm Tạo dáng bằng tay trên bàn xoay Đổ khuôn Phơi sấy khó và sửa hàng mộc Quá trình trang trí hoa văn trên gốm sứ và tráng men Trang trí hoa văn Chế tạo men gốm Bát Tràng xưa thế nào Quy trình tráng men gốm Quá trình sửa hàng men trước khi nung Quá trình nung gốm Bát Tràng bằng lò cổ Lò nung gốm Lò ếch Lò Bầu Lò hộp , lò đứng Lò điện Lò gas Quá trình bao nung Nhiên liệu nung lò gốm Chồng lò Đốt lò Chọn đất Ở làng Bát Tràng, sở dĩ dân làng Bồ Bát Ninh Bình chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Từ Bát Tràng họ ngược dòng sông Hồng lên vùng Sơn Tây, Phúc Yên, rẽ qua sông Đuống, xuôi dòng Kinh Thầy đến Đông Triều,khai thác nguồn đất sét trắng ở Hồ Lao, Trúc Thôn. Xưởng sản xuất gốm sứ Bát Tràng, đất sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám, độ chịu lửa ở khoảng 16500C. Thành phần hoá học của đất sét Thác Thôn theo kết quả phân tích của viện Silicat Tổng Cực Hóa chất. Như thế tuy là loại đất tốt được người thợ gốm Bát Tràng ưa dùng nhưng sét Trúc Thôn cũng có một số hạn chế như chứa hàm lượng Fe2O3 khá cao, độ ngót khi sấy khô lớn và bản thâu sẽ không được trắng sáng. Mô tả quá trình làm gốm thủ công bát tràng ngày xưa Quá trình xử lý, pha chế đất tạo phôi gốm Bất cứ cơ sở làm gốm nào dù là sơ khai nhất cũng đều phải tiến hành xử lý đặt một cách cẩn thận. Khảo cổ học cho hay rằng ngay từ thời kỳ đồ đá mới, lúc con người phát minh ra đồ gốm thì họ đã biết xử lý đất và kỹ thuật xử lý đất càng về sau cùng phát triển, hoàn thiện. Bởi vì ở trong đất, dù là đất tốt nhất cũng vẫn chứa nhiều tạp chất. Hơn thế nữa, tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà ở cùng một lò gốm, tại một địa điểm, cùng do một người sả xuất cnô thể có những cách pha chi đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Vì thế khâu xử lý đất, pha chế đất phụ thuộc yêu cầu của loại hình sản phẩm. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý chất truyền thống là xử lý thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa. Thường mỗi cơ sở làm gốm ở Bát Tràng đều có xây hệ thống bể chứa gồm 4 bể ở độ cao thấp khác nhau Bể đánh Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả là bể đánh dùng để cho đất sét thô và nước vào ngâm khoảng 3 – 4 tháng. Đất tốt dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡ kết cấu hạt nguyên thuỷ của nó và bắt đầu quá trình phân rã. Thời gian ngâm đất càng lâu càng tốt vì quá trình phân huỷ của đất cũng diễn ra từ từ mà như dân gian gọi là ngâm lâu để cho đất nát ra. Khi đất đã chín – văn theo cách gọi dân gian, người ta đánh đất thật đều, thật tơi để các hạt đất thực sự hoà tan trong nước tạo thành một thứ dịch lỏng. Bể lắng Người ta tháo chất dịch lỏng này xuống bể thứ hai ở thấp hơn gọi là bể lắng hay bể lọc. Tại đây, đất sét bắt đầu lắng xuống, một số tạp chất nhất là các chất hữu cơ nổi lên và người ta tiến hành loại bỏ chúng. Bể phơi Nước ở bể lắng trong dần trở lại. Ngày nay nhiều gia đình tiết kiệm nước đã dùng bơm đưa nước trong bể lắng quay trở lại bế đánh để chuẩn bị ngâm cối đất mới. Sau đó người ta mức chất bồ loãng từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là bể phơi. Bể ủ Người Bát Tràng thường phải đất ở bể phơi khoảng 3 – 4 ngày, sau đó chuyển đất sang bé thứ tư là bể ủ. Tại bể ủ, ôxyt sắt Fe2O3 và các tạp chất khác bị khử bằng phương pháp lên men tức là quá trình vi sinh vật hoá khử các chất có hại trong đất. Thời gian ủ không hạn chế, giữ đất trong bố ủ càng lâu thì các tạp chất trong đất càng bị khử triệt để hơn. Công thức lý tưởng của khoáng chất làm gốm là Al2O3, 2SiO2, 2H2O. Tuy nhiên trong thực tế không bao giờ người thợ gốm tạo ra được loại đất như thế này dù cho họ có thể kéo thật dài thời gian ủ đất. Nhìn chung khâu xử lý đất của người thợ gốm nước nói chung và thợ gốm Bát Tràng nói riêng thường không qua nhiều công đoạn phức tạp. Tuy thế trong quá trình xử lý, tuỳ theo từng loại đồ gốm mà người ta có thể pha thêm cao lạnh ở mức độ nhiều ít khác nhau. Những loại đất sét gầy nhiều cát, độ hút nước không cao mà đất lại dễ bờ thì người thợ gốm phải tìm cách bỏ bớt cát đi. Những loại đất sét mỡ ít cát, hút nước nhiều, quá dính thì phải pha thêm cát và một số chất không dẻo để chống rạn nứt trong khi phơi hay nung gốm. Theo dân làng Bát Tràng kể lại thể loại đất sét trắng ở phường Bạch Thổ ngày xua, huy đất màu vàng xám khai thác ở vùng Dâu Canh thường được dân làng xử lý rất đơn giản, thậm chí có khi không cần phải pha chế nghiền lọc. Họ chỉ cần loại bớt tạp chất, ngăm đất cho chín sau đó dùng cuốc đảo đi đảo lại cho nhuyễn đất rồi vua lên thành đống và dẫm cho nát và dùng nề cái kéo cắt đất làm bằng dây thép mỏng thái mỏng đất ở xung quanh và dần dần vào đến tận lõi quả đất. Trong khi thái đất nếu gặp sỏi, rác, tạp chất thì loại ra. Đất thái nhỏ lại được vun lên thành đống, xéo đi xéo lại cho thật nhuyễn và có thể thái thêm một vài lần nữa để nhặt kỹ tạp chất trước khi đem vào sử dụng Quá trình tạo dáng sản phẩm Tạo dáng bằng tay trên bàn xoay Tạo dáng là quá trình tạo ra hình dáng của sản phẩm gốm. Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khi tạo dáng người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối nuốt tay, be chạch trên bàn xoay. Ở Bát Tràng trước đây công việc vuốt tay trên bàn xoay định hình sản phẩm vẫn do người phụ nữ đảm nhiệm. Họ ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn rồi dùng chân quay bàn xoay và tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vào bàn xoay được vò cho thật nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném bắt nẩy cho thu ngắn lại. Sau đó người ta đặt vào mà giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lại nén và kéo cho đất nhuyễn dẻo mới định cữ đất và ra hương chủ yếu bằng hai ngón tay bên phải. Sau quá trình kéo đất bằng tay và bằng sành tới mức cần thiết người thợ sẽ dùng sành dàn để định hình sản phẩm. Sản phẩm xén lợi và bắt lợi xong thì được cắt chân đưa ra đặt vào bửng. Việc phụ nữ sử dụng bàn xoay vuốt tạo dáng ban đầu của sản phẩm là công việc bình thường phổ biến ở mỗi lò gốm cổ Việt Nam, không chỉ riêng Bát Tràng mà là ở khắp mọi nơi, nhưng lại rất xa lạ với người thợ gốm phương Tây. Tuy thế, kỹ thuật vuốt tay đã mất dần và hiện nay không còn mấy người thợ gốm Bát Tràng còn có thể làm được công việc này nữa. Be chạch cũng là một hình thức vuốt sản phẩm trên bàn xoay nhẹ đà và chủ yếu do thợ đàn ông đảm nhiệm. Ống chất trước khi ra hương được lần lượt tách ra từng phần tuong ứng với mỗi sản phẩm vuốt nặn. Người thợ gốm vừa be vừa kéo vừa định hình sản phẩm. Nhờ be chạch người thợ đã giảm bớt động tác đặt đất vào bàn xoay. Lối be chạch vuốt tay trên bàn xoay được áp dụng cho việc tạo các hiện vật kích thước lớn có dáng tròn căn đối. Tuy vậy trong thực tế người thợ gốm còn phải tạo vật phẩm đa hình, đa dạng nên họ không thể không dùng phương pháp đắp nặn. Người thợ đắp nặn gốm là người thợ có trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao. Có khi họ đắp nặn một sản phẩm gốm hoàn chỉnh, nhưng cũng có khi họ đáp nặn từng bộ phận riêng rẽ của một sản phẩm và sau đó tiến hành chấp ghép lại. Hiện nay theo yêu cầu sản xuất gốm công nghiệp hay mỹ nghệ, nghệ nhân gốm có thể đáp nặn một sản phẩm mẫu để đổ khuôn thạch cao phục vụ cho việc sản xuất hàng loạt. Đổ khuôn Việc tạo hình sản phẩm gốm theo khuôn in có thể là khuôn thạch cao huy khuôn gỗ được tiến hành như sau Người ta đặt khuôn giữ bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, vết đất lên lợi vành, quay bàn xoay và kéo cần tới mức cần thiết để tạo sản phẩm. Ngày nay người làng gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến kỹ thuật đúc hiện vật. Muốn có hiện vật gốm theo kỹ thuật đúc, trước hết ta phải chế tạo khuôn bằng thạch cao. Khuôn có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Loại đơn giản là khuôn hai mang, loại phức tạp thì thường có nhiều mang tuỳ theo hình dáng của sản phẩm định tạo. Về qui trình tạo khuôn, trước hết người ta phải tạo cốt. Cốt giống hệt sản phẩm định tạo nhưng có kích thước lớn hơn sản phẩm định tạo từ khoảng 15 đến 17% tuỳ theo độ co của loại đất. Sau khi có cốt, người ta tiến hành tạo khuôn đầu và nhiều khuôn thạch cao tương tự nhau. Khi đã có khuôn thạch cao người thợ gồm chỉ cần rót hồ vào trong khuôn là có thể tạo ra sản phẩm mộc. Tất nhiên trước khi rót hồ vào khuôn người ta phải kiểm tra lại khuôn xem độ khô đã bảo đảm chưa, loại hồ có pha xút NaOH định sử dụng nồng độ thể nào bình thường nồng độ nước trong hồ không quá 26% và họ phải quét chất chống dính vào mặt trong của khuôn trước khi rót hồ vào đây khuôn. Đợi cho đến khi họ đọng thành lớp mặt trong khuôn thì người ta đổ phần hồ thừa ra. Thời gian tháo khuôn tuỳ thuộc vào loại sản phẩm định tạo lớn hay nhỏ, dày hay mỏng. Có loại sản phẩm phải sau hai giờ mới có thể tháo khuôn nhưng cũng có loại chỉ phải chờ trong khoảng thời gian không quá 10 phút. Cách tạo dáng này trong cùng một lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm giống nhau, rất nhanh và giản tiện. Phơi sấy khó và sửa hàng mộc Sau khi tạo dáng sản phẩm dù là đổ khuôn, vuốt nặn hay in thì sản phẩm vẫn còn rất ướt và dễ bị biến dạng. Người ta phải tiến hành phơi sản phẩm sao cho khô đều, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sắn phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá. Người ta đặt hiện vật mới tạo dáng vào một cái giá gỗ để nơi thoáng mát thường là ở trong nhà có mái che mưa nắng. Cách phơi này bảo đảm an toàn nhưng lại không kinh tế. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp xây hiện vật trong lò. Về nguyên tác kỹ thuật sấy đòi hỏi tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần. Tuy không khử toàn bộ nước trong hiện vật nhưng quá trình sấy vẫn tạo cho hiện vật một độ cứng nhất định để khi đem vào nung, gốm không bị biến hình Sản phẩm khi đã định hình được phơi hong cho cương tay xong dem ủ vóc và sửa lại cho hoàn chỉnh. Người thợ gốm đặt sản phẩm vào mã trên bàn xoay nhẹ đà rồi vừa xoay bàn xoay vừa đầy nhẹ vào chân vóc cho cân. Sau đó dùng đùi vỗ nhẹ vào chân vóc cho đất ở chân vóc chặt lại và sản phẩm tròn trở lại gọi lửa. Người thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chấp các bộ phận của sản phẩm như vòi ấm, quai tách…. khoan lỗ trên các sản phẩm, tia lại đường nét hoa văn và chuối nước cho mịn một sản phẩm. Những sản phẩm sửa lại mà không dùng bàn xoay thì gọi là làm hàng bộ, phải dùng bàn xoay thì gọi là làm hàng bàn. Tuỳ theo từng loại sản phẩm mà người thợ gốm có thể còn phải đắp nổi hay khắc chìm trên mặt hiện vật. Theo yêu cầu trang trí, người ta đắp vào một vài vùng nào đó trên sản phẩm rồi cắt tỉa để tạo hình giống như đắp phù điêu. Cũng có sản phẩm người ta phải khắc sâu các hoạ tiết trang trí trên mặt sản phẩm Quá trình trang trí hoa văn trên gốm sứ và tráng men Trang trí hoa văn Thực ra công việc trang trí đồ gốm phải bao gồm cả việc đắp nổi, khắc chìm hoa văn, nhưng chúng tôi đã nói tới những công việc này khi trình bày về phần trang trí trong quá trình tạo dáng ở trên. Do đó trang trí ở đây chỉ khoanh lạiở công việc vẽ màu và bởi quét men. Hình thức trang trí hoa lam, người thợ gốm Bát Tràng xưa dùng lối về thủ công. Ở đây người thơ dùng bút lông vẽ mẫu lên sản phẩm Vẽ bằng bút lông đòi hỏi người thợ vẽ có tay nghề cao, tuy là cũng một mô típ trang trí nhưng qua tay người thợ vẽ, mỗi đồ gốm trở thành một tác phẩm hội họa riêng. Nếu tác phẩm vẽ thành công thì nó tôn lên rất nhiều giá trị của đồ gốm. Ngoài ra người thợ gốm Bát Tràng còn có các hình thức trang trí khác như đánh chỉ định vòng tròn quanh miệng, thân hoặc chân sản phẩm bằng màu hoặc men màu hay bởi men chảy một loại men trang trí lên trên miệng sản phẩm để khi nung men chảy toi xuống tạo nên những đường nét màu sắc tự nhiên, hài hoà. Những năm gần đây ở Bát Tràng nhiều gia đình lại sử dụng phổ biến kỹ thuật hấp hoa lên trên mặt đồ gốm tráng men đã nung chín. Họ mua những hoa văn trang trí nhiều màu đã in sẵn trên một loại giấy đặc biệt vốn được nhập vào từ nước ngoài rồi dán lên sản phẩm và hấp trong lò tuy-nen. Chế tạo men gốm Bát Tràng xưa thế nào Đây thực sự là một bí quyết của nghề gốm. Để tạo được men đòi hỏi người thợ gốm phải chế biến tốt và pha chế các nguyên liệu theo đúng tiêu chuẩn. Men là lớp áo ngoài của gốm ở trạng thái thuỷ tinh hoá. Nó đóng vai trò bảo vệ, tăng thêm độ bền vững và độ cứng cho chế phẩm và là hình thức trang trí hoa văn cho sản phẩm. Nhìn vào lớp men bọc ngoài người ta có thể đánh giá được trình độ kỹ thuật của người làm gốm. Trong khoảng thời gian từ TK XIV- XIX người thợ gốm Bát Tràng sử dụng có đến 5 loại men khác nhau trong đó men tre là loại men được sử dụng phổ hiến hơn cả. Men tro Bát Trùng được chế ra từ ba thành phần chính là đất sét trắng, vòi sống để tơ và tro trấu của làng Lường Nam Hà. Công thức pha chế men tro theo như kinh nghiệm dân gian thì cứ 2,5 bát đất sét trắng trộn với 4,7 bát vôi bột tán và 12 bút tro. Ngoài loại men tro, người thợ đá Bát Tràng còn chế ra loại men màu sô cô la. Thành phần loại men này bao gồm men tro cộng thêm 5% đá thối hỗn hợp oxyt sắt và ôxyt mănggan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc. Từ TK XV người thợ gốm Bát Tràng đã từng chế tạo ra loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đá đỏ ôxýt cô ban đá thối ô xýt măn gan nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men lam phát mầu ở nhiệt độ 1250℃. Cho đến đầu TK XVII người Bát Tràng dùng vôi sống, tro trấu và cao lanh chùa Hội Bích Nhỏi, Hải Hưng có màu hồng nhạt điều chế thành một loại men mới là men rạn. Tham khảo thêm Men gốm là gì ? Trên đại thể người ta phải chế men theo hai cách là khô và ướt nhưng người thợ gốm Bát Tràng thường quen sử dụng cách thứ hai. Họ cho nguyên liệu đã nghiền lọc kỹ trộn đều với nhau rồi khuấy tan trong nước đợi đến khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và bã đọng ở dưới đáy mà chỉ lấy các dị lơ lửng ở giữa. Các màu men gốm phổ thông ngày nay được làm dễ dàng hơn nhiều Dị chính là lớp men bóng để phủ bên ngoài đô vật. Trong quá trình chế tạo men người thợ gốm Bát Tràng nhận thấy để cho men dể chấy họ phải chế biến bột tro nhỏ hơn nhiều so với bột đất. Vì thế mà dân gian đã đúc kết kinh nghiệm chế men là “thời tro to dàn” Quy trình tráng men gốm Khi sản phẩm mộc đã hoán chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ không cao rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốm Bát Tràng thường chọn phương pháp tráng men trực tiếp lên trên sản phẩm mộc hoàn chỉnh. Sản phẩm mộc trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu, trước khi tráng men người thợ gồm còn phải lăng sản phẩm bằng một lớp đất sét trắng gọi là lớp lót. Men trước khi đem sử dụng cần được kiểm tra lại thật kỹ chất lượng và chủng loại, phải tính được một cách chuẩn xác tính năng của loại men định sử dụng có thích hợp với loại xương gốm, kích thước, hiện trạng của hiện vật và nồng độ men có phải hợp với thời tiết, khí hậu lúc định tráng tren hay không . Đây vừa là kỹ thuật vừa là nghệ thuật. Đối với loại sản phẩm lớn người ta có thể dùng phung pháp dội men hay phun men, còn những sản phẩm nhỏ người ta thường dùng phương pháp nhúng men. Thời gian những men chỉ trong khoảng từ 3 đến 5 giây. Người Bát Tràng còn cho biết các hình thức phủ men thông dụng như các men láng men trong lòng sản phẩm, kìm men láng men bên ngoài sản phẩm và quay men láng men ở bên trong và bên ngoài sản phẩm trong cùng một thời điểm . Quá trình sửa hàng men trước khi nung Sau khi sản phẩm đã khô men, người thợ gốm phải tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nụng. Công việc này gọi là sửa hàng men. Trước hết họ xem kỹ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men hay không. Nếu thấy sản phẩm có chỗ khuyết men thì phải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành cắt dò tức là cạo men ở chân sản phẩm, vén men ở hai bên mép chân. Họ đưa sản phẩm lên bàn xoay rồi dùng một thanh giang bé góc thước thợ tạo thành lưỡi ve rộng khoảng 1 cm để cà vào lòng sản phẩm cạo những chỗ men thừa trong lòng sản phẩm. Cuối cùng người ta xếp thành đống thường là đống hết, mỗi đống khoảng từ 15 – 20 bát để khi nung bát chín mà không bị dính vào nhau, gọi là lửu. Muốn giữ men trong lòng sản phẩm người ta thay thế động tác ve lòng bằng việc đặt các vật kê gọi là dồn đống hay toàng mẫu Quá trình nung gốm Bát Tràng bằng lò cổ Lò nung gốm Trước đây người thợ gốm Bát Tràng chuyên sử dụng các loại là như là ếch hay lò cóc, lò đàn và lò gốm. Lò ếch Là ếch là kiểu là gốm cổ nhất được sử dụng một cách phổ biến ở khắp mọi nơi trong đó có Bát Tràng những thế kỷ trước. Lò ếch ở Bát Tràng từ lâu đã mất hết dấu tích nhưng qua các nguồn tư liệu gián tiếp vẫn có thể hình dung được lò có hình dáng giống như một con ếch nằm dài khoảng 7 mét, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 3 -4 mét, cửa lò rộng khoảng 1,2 mét, cao 1 mét, đáy lò phẳng nằm ngang, vòm lò cao khoảng từ 2 mét đến 2,7 mét . Bên hông lò có một cửa ngách rộng 1 mét, cao 1,2 mét phục vụ cho việc chồng lò và đỡ sản phẩm. Là có 3 ống khói thẳng đứng cao từ 3 mét đến 3,5 mét. . Trong quá trình lâu dài sử dụng lò ếch, để khắc phục nhược điểm của lớp đất gia cố bên trong và sàn lò, người ta thay vào đó lớp gạch mộc và vữa ghép sử dụng chính loại đất làm gạch đó. Lò Bầu . Đến giữa TK XIX ở Bát Tràng xuất hiện kiểu lò mới là là đàn. Là đàn có bầu lò dài 9 mét, rộng 2,5 mét, cao 2,6 met được chia thành 10 bích hàng nhau. Vị trí phân cách giữa các bích là hai nống cột. Cửa lò rộng 0,9 mét, cao 1,2 mét. Bích thứ 10 gọi là bích dận thông với buồng thu khói qua 3 của hẹp. Để giữ nhiệt, bích là kéo dài và ôm lấy buồng thu khói. Lớp vách trong ghép gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cột lò gần như bằng phẳng còn mặt trên hình vòng khurn. Hai bên cột lò từ bích thứ 2 đến bích thử 9 người ta đều mở hai cửaa nhỏ hình tròn, đường kính 0,2 mét gọi là các là giải để ném nhiên liệu vào trong bích. Riêng bích đậu người ta mở lỗ đậulỗ giòi rộng hơn nửa mét. Nhiệt độ lò đàn có thể đạt được từ 1250 °C đến 1300 Từ đầu TK XX người Bát Tràng lại chuyển sang xây dựng loại lò bầu hay là rồng. Là bầu chia ra làm nhiều ngăn, thường có từ 5 đến 7 bầu cũng có khi đến 10 bầu. Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp vuông góc với trục tiêu của lò tựa như những mảnh vỏ xò úp nối với nhau. Người ta dùng gạch chịu lửa để xây dựng vòm cuốn của lò. Lò dài khoảng 13 mét cộng với đoạn để xây ống khói ở phía đuôi dài 2 mét thì toàn bộ độ dài của lò tới 15 mét. Độ nghiêng của trục lò khoảng từ 12 đến 15 đó. Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 1300C36 Lò hộp , lò đứng Khoảng hơn hai chục năm trở lại đây người dân Bát Tràng chuyển sang xây dựng lò hộp hay là đứng để nung gốm. Là thường cao 5 mét rộng 0,9 mét, bên trong xây bằng gạch chịu lửa giống như xây tường nhà. Là mở hai cửa, kết cấu đơn giản, chiếm diện tích ít, chi phí không nhiều, rất tiện lợi cho việc tổ chức theo quy mô gia đình. Có thể vì thế mà ở Bát Tràng ngày nay hầu như gia đình nào cũng có lò gốm, thậm chí nhiều gia đình có đến 2,3 lò và tất cả đều là loại lò hộp. Nhiệt độ lò hộp có thể đạt tới 1250ºC. Lò điện Lò gas Quá trình bao nung Gạch Bát Tràng là loại gạch dùng để chồng lò ngày xưa , trải qua quá trình nung nhiều lần đạt đến độ cứng của sành ,không bám rêu rất cứng Trước đây, các lò gốm Bát Tràng dùng một loại gạch vuông ghép lại làm bao mung. Loại gạch này sau hai ba lần sử dụng trong lò đạt đến độ lửa cao và cứng gần như sành. Đó là gạch Bát Tràng nổi tiếng khắp nước và đã đi vào ca dao, tục ngữ. Gần đây bao nung thường được làm bằng đất có màu xám sẵm trộn đều với bột gạch hoặc bao nung hỏng nghiền nhỏ gọi là xa mốt với tỷ lệ từ 25 đến 35% đất sét và từ 65 đến 75 % sa mốt. Người ta dùng một lượng nước vừa đủ để trộn đều và đánh nhuyễn chất hỗn hợp này rồi đen in dập thành bao nung hay đóng thành gạch ghép ruột lò. Bao nung thường hình trụ để cho lửa có điều kiện tiếp xúc đều với sản phẩm. Tuỳ theo sản phẩm mà bao nung có kích thước không giống nhau nhưng phổ biến hơn cả là loại có đường kính từ 15 đến 30 cm, đầy từ 2 – 5 cm và cao từ 5 đến 40 cm. Một bao nung có thể dùng từ 15 đến 20 lần. Nhiên liệu nung lò gốm Củi đốt lò bầu ngày xưa tại Bát Tràng Đối với loại là ếch thời kỳ đầu người ta chỉ dùng các loại rơm rạ tre nứa để đốt lò. Về sau người ta dùng kết hợp rơm rạ với các loại củi phác và củi bửa. Củi phác và củi bửa dần dần trở thành nguồn nhiên liệu chính cho các loại lỗ gốm ở Bát Tràng. Nhìn chung các loại gỗ đều có thể dùng để đốt lò được, chỉ trừ mấy loại gỗ như sung, da, gạo, vối. Củi bửa và củi phác sau khi đã bổ được xếp thành đống ngoài trời, phơi sương nắng cho ải ra rồi mới đem sử dụng. Theo sau đó sử dụng lò đứng, nguồn nhiên liệu chính mà người Bát Tràng sử dụng lại là than cám còn củi chỉ để gầy lò. Than cám đem nhào trộn kỹ với đất bùn theo tỷ lệ nhất định có thể đóng thành khuôn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Nhiều khi người ta nặn than ướt rồi đạp lên tường khô để tưởng hút nước nhanh và than chống kết cứng lại có thể dùng được ngay. Chồng lò Sản phẩm mộc sau quá trình gia công hoàn chỉnh được đem vào lò nung. Việc xếp sản phẩm trong lò nung như thế nào là tuỳ theo sản phẩm và hình dạng kích cỡ của bao nung trên nguyên tắc vừa sử dụng triệt để không gian trong lò vừa tiết kiệm được nhiên liệu mà lại đạt hiệu nhiệt cao. Bởi vì cấu tạo của mỗi loại là khác nhau nên việc chồng lò theo từng loại lò cũng có những đặc điểm riêng. Đối với loại lò ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra tới cửa lò, còn đối với loại lò dàn thì người ta xếp sản phẩm từ bích thứ 2 đến bích thứ 10 riêng bích thử 10 vì lửa kém nên sản phẩm thường để trần không cần có bao nung ở ngoài. Ở bầu cũi lợn bầu đầu tiên nơi giành để đốt nhiên liệu, có nhiệt độ cao nên đôi khi người ta xếp các loại sản phẩm trong các bao ngoại cỡ. Sản phẩm được xếp trong lò bầu trên đại thể cũng không khác là đàn. Riêng đối với lò hợp, tất cả các sản phẩm đều được đặt trong các bao nung hình trụ không đậy nấp và xếp chồng cao dần từ đấy lên nóc, xung quanh tường lò và chỗ khoảng trống giữa các bao trung đều được chèn các viên than. Làng Bát Tràng xưa có các phường Chồng lò, mỗi phường thường gồm 7 người 3 thợ cả, 3 thợ đệm và 1 thợ học việc. Họ chia thành 3 nhóm trong đó mỗi nhóm có 1 thơ cả và 1thợ đệm, còn thợ học việc có nhiệm vụ bưng bao núng và sản phẩm mộc phục vụ cho cả 3 nhóm trên. Nhóm thứ nhất có nhiệm vụ chồng đáy xếp bao mung và sản phẩm ba lớp từ đáy lên, nhóm thứ hai có nhiệm vụ chồng giữa xếp ba lớp giữa, còn nhóm thứ ba là nhóm gọi mặt xếp ba lớp cuối cùng ở vị trí cao nhất trong lò, Phường Chồng lò ở Bát Tràng chủ yếu tập hợp những người thợ gốm ở Sài Sơn Quốc Oai, Hà Tây và Văn Đình Mỹ Đức, Hà Tây chuyên phục vụ cho các lò gốm Bát Trắng. Đốt lò Khi công việc chuẩn bị đã hoàn tất thì đốt là trở thành khẩu quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của một lò gốm. Vì thế giờ phút nhóm lò trở nên thiêng liêng trọng đại với người thợ gốm. Người thợ cả cao tuổi nhất thắp ba nén hương và thành kính cầu mong trời đất và thần lửa phù giúp. Việc làm chủ ngọn lửa theo nguyên tắc năng dần nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín thì lại hạ nhiệt độ từ từ chính là bí quyết thành công của khẩu đốt lò. Nhìn chung đối với các loại lò ếch, là đàn, lò bầu quy trình đốt lò đều tương tự nhau và với kinh nghiệm của mình, người thợ cả có thể làm chủ được ngọn lửa trong toàn bộ quá trình đốt lò. Ở lò đàn khoảng một nửa ngày kể từ khi nhóm lửa người ta đốt nhỏ lửu tại bầu cũi lợn để sấy lò và sản phẩm trong lò. Sau đó người ta tăng dần lửa ở bầu cũi lợn cho đến khi lửa đổi lần tới bích thứ tư thì việc tiếp củi ở các bầu cũi lợn bắt đầu được dùng lại. Lúc này người ta tiếp tục ném củi bửa qua các lỗ giòi. Người xuất cả bằng kinh nghiệm của mình kiểm tra kỹ các bích và ra lệnh ngừng ném củi bửa vào các bích nào khi biết sản phẩm ở bích đó đã chín. Các loại lò nung gốm Bát Tràng Càng về cuối sản phẩm chín càng nhanh. Khi sản phẩm trong bích đậu đã chín thì người thợ cả quyết định ném đồn dập trong vòng năm tháng khoảng 9 – 10 bổ củi bửa qua lỗ đậu rồi kết thúc việc tiếp củi. Phường đối là thường có từ 5 đến 7 người do người phường trưởng xuất cả phụ trách chung về kỹ thuật, hai người thợ đốt ở cửa lò đốt dưới, bốn người chuyên ném củi bửa qua các lỗ giòi đốt trên. Những người đốt trên nóc lò phải đi guốc mộc cao kiểu đặc biệt và dùng gậy dài, đầu có gắn đỉnh nhọn để đẩy củi vào lò. Đối với lò đứng, việc đốt lò trở nên đơn giản hơn nhiều, vì khi hoàn tất khâu chồng là cũng có nghĩa là đã kết thúc việc nạp nhiên liệu. Người ta dùng gạch chịu lửa bịt cửa lò lại rồi nhóm lò bằng củi. Lẻm cháy bén vào than và bốc từ dưới lên. Than trong là cháy hết cũng là lúc kết thúc công việc đốt lò. Thời gian đốt lò kể từ lúc nhóm lửa đến khi hoàn toàn tắt lửa kéo dài khoảng 3 ngày 3 đêm. Người thợ đốt lò ở đây dù có dày dặn kinh nghiệm cũng rất khó có thể làm chủ được ngọn lửa. Đây thực sự là vấn đề khó khăn nhất trong khâu kỹ thuật ở làng Bát Trồng trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay muốn nâng cao hơn nữa chất lượng gốm mà vì đất quá chật, người quá đông không có điều kiện tái lập các lò bầu, lò đàn như trước Đối với lò bầu, lò dàn sau khi nung xong người ta bịt hết các cửa lò, lô giòi, lỗ xem lửa để làm nguội từ từ. Quá trình làm nguội trong lò kéo dài 2 ngày 2 đêm, sau đó mới mở cửa lò và để tiếp 1ngày 1 đêm nữa rồi mới tiến hành ra Sản phẩm ra là được đánh giá phân loại và sửa chữa lại các khuyết tật nếu có thể được trước khi đem ra phân phối sử dụng. Quy trình sản xuất gốm sứ Bát Tràng đã đồng hành với người dân ở đây suốt bao nhiêu đời nay , ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật , người dân cũng làm gốm dễ dàng hơn , nhiều nhà cung cấp vật liệu , đất , men , làm khuôn không còn phải xử lý vất vả như ngày xửa , với các lò nung bằng ga bằng điện , sản phẩm ngày càng đa dạng hơn , chất lượng hơn Với nhiều nghệ nhân trẻ ngày càng học hỏi công nghệ thế giới áp dụng vào làng nghề Bài viết tham khảo nhiều nguồn tài liệu Đằng sau nét đẹp tinh tế sắc sảo của đồ gốm sứ là những bước sản xuất đầy công phu. Những sản phẩm gốm sứ có truyền thống lâu đời, gắn bó và được người dân ưa chuộng. Quy trình sản xuất gốm sứ bao gồm nhiều công đoạn và được tổng kết thành 5 khâu chính từ khâu thấu đất chọn và xử lý đất, tạo hình gốm sứ, trang trí hoa văn, tráng men và nung thành phẩm. Mỗi giai đoạn thể hiện sự khéo léo, tỉ mỉ hòa cùng kinh nghiệm của người nghệ nhân. Cùng Vinaly tìm hiểu chi tiết từng bước trong quy trình làm gốm sứ ngay sau đây. 1. Chọn và xử lý đất – Thấu đất Nguyên liệu chính làm nên những đồ vật gốm sứ đó là đất sét, đất được chọn vừa có độ dẻo cao, độ ngót vừa phải và chịu được nhiệt độ nung đốt cao. Mỗi loại sản phẩm gốm sứ có tỷ lệ pha đất khác nhau làm nên sự đa dạng mẫu mã cũng như tính chất. Đất sét sau khi được chọn trải qua quá trình pha trộn và loại bỏ tạp chất. Nếu là lớp đất ít cát, hút nước thì cần được pha thêm cát để thành phẩm khi nung không bị nứt vỡ. Kế tiếp là quá trình loại bỏ tạp chất giúp gốm sứ có độ mịn, trắng và chất lượng tốt nhất. Quy trình sản xuất gốm sứ – Thấu đất Sau khâu lựa chọn nguyên liệu, tiếp đến là quá trình tạo hình sản phẩm gốm sứ theo mẫu định sẵn. Thông thường nghệ nhân thường sử dụng bàn xoay, khuôn in và đôi tay dẻo dai, khéo léo để tạo nên những sản phẩm gốm sứ như ý. Sau đó là quá trình hong khô trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời. 3 phương pháp tạo hình gốm sứ chính được sử dụng cho đến hiện nay bao gồm Nặn bằng tay, tạo hình trên bàn xoay, sử dụng khuôn. Ngoài ra có thể kết hợp nhiều phương pháp tạo hình cho những sản phẩm đặc biệt. Chi tiết cho từng phương pháp tạo hình cụ thể Tạo hình bằng bàn xoay sau quá trình tuyển chọn, đất được nhào nặn thành những khối to bằng cổ tay, tiếp đến chúng được chuốt thành đoạn ngắn, chân phải đạp bàn, 2 tay chuốt tạo hình liên tục bằng cách khoanh tròn ngay tâm khối đất giữa bàn xoay. Với phương pháp này mọi kích thước, độ dày, mỏng đều được quyết định bởi đôi tay của người nghệ nhân, chắc chắn có sai lệch nhưng không đáng kể. Tạo hình bằng bàn xoay được sử dụng cho sản phẩm có kích thước lớn như chum, bình, vại. Tạo hình bằng khuôn đúc thường được sử dụng sản xuất các loại gốm sứ số lượng lớn, hàng loạt như chén, đĩa. Tạo hình bằng cách nặn tay thường thấy ở những sản phẩm mang tính nghệ thuật, thẩm mỹ cao như linh thú, tượng, đỉnh gốm. Tạo hình sản phẩm 3. Trang trí hoa văn, họa tiết Khâu quan trọng quyết định tính thẩm mỹ cũng như giá trị trong quy trình sản xuất gốm sứ. Sau khi tạo hình và phơi khô, người nghệ nhân sử dụng bút lông để vẽ, hoa văn, tăng tính nghệ thuật thẩm mỹ cho từng sản phẩm. Gốm sứ được trang trí hoa văn bằng các phương pháp như sau Vẽ trên gốm sứ, vẽ trên men và lớp dưới men Người nghệ nhân thường dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền bằng các hoa văn, họa tiết như ý. Công đoạn này đòi hỏi người thợ phải có kinh nghiệm và đôi tay cực kỳ khéo léo. Mỗi sản phẩm tạo thành là một tác phẩm nghệ thuật riêng biệt. Ngoài ra người thọ có thể sử dụng các phương pháp như vẽ men màu, đánh chỉ, bôi men chảy màu để tạo nên những sản phẩm đặc sắc. Họa tiết được vẽ trước khi tráng men được gọi là vẽ dưới men, ngược lại hoa văn được vẽ sau khi tráng men gọi là vẽ trên men. Dạo gần đây người ta sử dụng kỹ thuật vẽ trên nền xương gốm sau khi trải qua công đoạn nung sơ 1 lần hoặc hấp hoa văn bằng cach trang trí theo hình vẽ đã được in sẵn trên giấy decal, nhập từ nước ngoài phổ biến từ Trung Quốc. Tuy nhiên hình thức này không được coi là nghệ thuật sáng tạo trong làng gốm sứ Việt Nam truyền thống. Trang trí hoa văn lên gốm sứ Cắt gọt, phân vạch sản phẩm gốm sứ Sản phẩm sau tạo hình được hong khô trực tiếp bằng ánh nắng mặt trời. Khi cứng sẽ được gọt cạo nhẵn, tạo hình như ý. Các chi tiết được tạo hình ở giai đoạn này như tai, quai, hình hoa lá, động vật nổi. Khắc vạch là phương pháp được người nghệ nhân sử dụng chủ yếu, sau đó là quá trình nung và tráng men. In hoa văn bằng khuôn đúc Sau khi tạo thành xương gốm sứ, người thợ thay vì vẽ hoặc khắc lên thân gốm sứ thì họ dùng một khuôn cũng được bằng gốm có khắc hoa văn âm bản rồi ép vào khối gốm sứ định sẵn, sau đó tráng men rồi đem nung. Độ dày mỏng của lớp men tạo ra hiệu ứng, hiện ra những hoa văn định sẵn. Các sản phẩm sử dụng phương pháp này phổ biến là gốm men hoa nâu và gốm men ngọc. 4. Tráng men gốm sứ Sau khâu trang trí, các sản phẩm gốm sứ sẽ được tiến hành nung sơ, sau đó được phủ lớp men và mang đi nung chính thức. Tùy thuộc vào từng loại, một số không qua giai đoạn nung sơ trước đó. Với sản phẩm có kích thước nhỏ thường được nhúng vào men. Với sản phẩm có kích thước lớn hơn người ta thường sử dụng phương pháp dội hoặc phung men. Tiếp đến là quá trình sửa hàng men, người thợ tiếp tục tu sửa lại sản phẩm lần cuối đảm bảo lớp men đều, không bị khuyết, cạo bỏ những chỗ dư thừa lần nữa trước khi đưa vào lò nung chính thức. Tráng men gốm sứ 5. Nung thành phẩm gốm sứ Đây là một trong những công đoạn cuối đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quy trình sản xuất gốm sứ. Người ta thường sử dụng các dạng lò hộp, lò bầu và nguyên liệu là than cám, củi gỗ hoặc gas để nung gốm sứ thành phẩm. Tùy thuộc vào sản phẩm và các loại gốm sứ nhiệt độ nung cũng khác gốm nhiệt độ nung khoảng 600 đến 1280 độ C trong đó gốm đất nung nhiệt độ nung từ 600 đến 900 độ C, gốm sành nâu 1100 đến 1200 độ C, đốm sành xốp được nung ở 1200 đến 1250 độ C. Riêng với đồ sứ nhiệt độ nung cao hơn từ 1280 đến 1350 độ C. >>> Ngoài nhiệt độ nung khác nhau, gốm và sứ còn có những đặc điểm nhận dạng chuyên biệt. Tham khảo ngay cách phân biệt gốm và sứ để nhận diện và lựa chọn chuẩn dành riêng 2 chất liệu này. Vậy là Vinaly vừa cùng bạn tìm hiểu chi tiết nhất về quá trình làm gốm sứ tạo nên những sản phẩm vô cùng ấn tượng bằng đôi tay tài hoa của những người nghệ nhân. Xem dõi chúng tôi để cập nhật thêm nhiều thông tin hữu ích chuyên sứ nhé! Công ty cổ phần UNC xin hân hạnh được giới thiệu đến Quý khách hàng quy trình sản xuất dòng sản phẩm gốm sứ cao cấp mang thương hiệu UNCVietnam. Để làm ra đồ gốm sứ chất lượng cao người thợ phải qua các khâu chọn nguyên liệu, xử lí và pha chế nguyên liệu, tạo dáng, tạo hoa văn, tráng men, nung sản phẩm và cuối cùng là chọn lọc thành phẩm với tiêu chuẩn cao. Kinh nghiệm truyền đời của người làm gốm sứ là "Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò". Người thợ gốm sứ quan niệm hiện vật gốm sứ không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành 五行 là kim 金,mộc 木, thuỷ 水, hoả 火 và thổ 土. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Bước 1 Chọn nguyên liệu s Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm sứ là nguồn nguyên liệu. UNC chia ra 2 yếu tố tạo thành lên sản phẩm gốm sứ là Đất và Men. Đất của bên em tạo thành từ 3 yếu tố chính đất sét, cao lanh và tràng thạch Đất sét là phần tạo nên sự dẻo dai của của nguyên liệu để thuận tiện cho việc tạo hình. Thành phần chính của Đất Sét là Al2O3 và Si2O3. Thành phần các loại đất sét khác nhau rất ít. Sự khác biệt lớn nằm ở chỗ độ nhỏ của hạt đất nguyên liệu. Hiện tại các sản phẩm Công ty UNC dùng nguyên liệu với tiêu chuẩn mắt sàng lọc đất là nhỏ hơn 10 nanomet. Chúng tôi là một trong số it đơn vị trong nước sử dụng đất sét mịn như vậy. s Cao lanh là thành phần chính quan trọng nhất để làm ra sản phẩm của gốm sứ. nó cùng với men và một số yếu tố khác có ảnh hưởng chính đến độ bền, đẹp vào cao cấp và giá thành của sản phẩm. Các nhà sản xuất trong nước và trên thế giới đều giữ những bí quyết riêng về thành phần và hạn lượng cao lanh và tràng thạch mình sử dụng trong xương đất. Các sản phẩm của công ty UNC được sử dụng từ nguồn nguyên liệu cao lanh nhập khẩu từ nước ngoài là chủ yếu từ Ấn độ, Băng la đét, Indonesia.... Thành phần chính của cao lanh là SiO2, Al2O3, H2O, ngoài ra còn có một lượng nhỏ tạp chất Fe, Ti, K và Mg. cao lanh có màu trắng, trắng xám, dạng đặc sít hoặc là những khối dạng đất sáng màu, tập vảy nhỏ, tinh thể đơn vị dạng hình lục lăng liên kết thành các tấm nhỏ. Trong các thành phần trên có hai thành phần chính chúng tôi luôn khống chế là Al2O3 khống chế từ 35% -42%,Ti khống chế từ 1%-1,4% bổ xung từ quặng petalite. Hai thành phần đó tạo lên độ sáng trắng của sản phẩm và có khả năng thấu quangnhìn xuyên qua được vật dụng trước ánh sáng. Nhiệt độ kết khối của Cao lanh từ 1700-18000C. Các sản phẩm gốm sứ UNCVietnam từ cao lanh có độ trắng từ 88% đến 92% trên thang độ trắng 100. Cao lanh thường chiếm khoảng 45%-60% xương đất. Men sứ bản chất là thủy tinh. Men sứ là một hệ phức tạp gồm nhiều ôxít như Li2O, Na2O, K2O, Ba2O3, CaO, ZnO, MgO, Al2O3, Fe2O3, SiO2... được làm từ việc trộn lẫn cao lanh, đất sét... Tràng thạch hay còn gọi là trường thạch thành phần chính KAlSi3O8, NaAl2Si2O8 hoặc LiAlSi4O10 và các thành phần thạch được cho vào đất với mục đích chính là hạ nhiệt độ kết khối của cao lanh. sử dụng loại tràng thạch Kali. Và thường sử dụng 2 nguồn nguyên liệu từ Ấn Độ và Việt Trì ,Phú Thọ. Tràng thạch thường chiếm khoảng 10% xương đất sứ thấu quang mang lại vẻ đẹp huyền bí hơn. Li2O được sử dụng với hàng lượng nhật định để tạo ra độ cứng của bề mặt men và tăng khả năng xuyên thấu của men làm nổi bật chất lượng xương đất bên trong. Cả hai yếu tố men và xương đất đã đem đến khả năng nhìn thấu sáng cao cho sản phẩm UNCVietnam. Chúng tôi tuyệt đối không dùng PbO chì oxit và Cd trong men. Điều này làm giảm độ bóng của men nhưng rất an toàn cho sức khỏe. kết quả kiểm nghiệm thành phần thôi nhiễm đều tuyệt đối không có 2 thành phần độc hại này. Bên em cũng áp dụng màng lọc Nano để lọc men. Nên các bề mặt sản phẩm của bên em có độ mịn cao tương đương các mặt hàng cao cấp của Trung Quốc và Minh Long khi sử dụng men Frit. Sử dụng men frit cho sản phẩm có độ bóng, mịn cao nhưng độ cứng của men không được tốt. nên dễ ràng bị trầy xước trong quá trìn sử dụng. cái này chỉ cần dùng một thời gian sẽ thấy có sự khác biệt. Bước 2 Xử lí, pha chế đất Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lí đất truyền thống là xử lí thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau. Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả là "bể đánh" dùng để ngâm đất sét thô và nước thời gian ngâm khoảng 3-4 tháng. Đất sét dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡ kết cấu hạt nguyên thuỷ của nó và bắt đầu quá trình phân rã dân gian gọi là ngâm lâu để cho đất nát ra. Khi đất đã "chín" cách gọi dân gian, đánh đất thật đều, thật tơi để các hạt đất thực sự hoà tan trong nước tạo thành một hỗn hợp lỏng. Sau đó tháo hỗn hợp lỏng này xuống bể thứ hai gọi là "bể lắng" hay "bể lọc". Tại đây đất sét bắt đầu lắng xuống, một số tạp chất nhất là các chất hữu cơ nổi lên, tiến hành loại bỏ chúng. Sau đó, múc hồ loãng từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là "bể phơi", người Bát Tràng thường phơi đất ở đây khoảng 3 ngày, sau đó chuyển đất sang bể thứ tư là "bể ủ". Tại bể ủ, ôxyt sắt Fe2O3 và các tạp chất khác bị khử bằng phương pháp lên men tức là quá trình vi sinh vật hoá khử các chất có hại trong đất. Thời gian ủ càng lâu càng tốt. Nhìn chung, khâu xử lí đất của người thợ gốm Bát Tràng thường không qua nhiều công đoạn phức tạp. Trong quá trình xử lí, tuỳ theo từng loại đồ gốm mà người ta có thể pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít khác nhau. Bước 3 Tạo dáng sản phẩm Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối "vuốt tay, be chạch" trên bàn xoay, trước đây công việc này thường vẫn do phụ nữ đảm nhiệm. Thợ ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn rồi dùng chân quay bàn xoay và tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vào bàn xoay được vò cho thật nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném "bắt nẩy" để thu ngắn lại. Sau đó người ta đặt vào mà giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lai nén và kéo cho đất nhuyễn dẻo mới "đánh cử" đất và "ra hương" chủ yếu bằng hai ngón tay bên phải. Sau quá trình kéo đất bằng tay và bằng sành tới mức cần thiết người thợ sẽ dùng sành dan để định hình sản phẩm. Sản phẩm "xén lợi" và "bắt lợi" xong thì được cắt chân đưa ra đặt vào "bửng". Việc phụ nữ sử dụng bàn xoay vuốt tạo dáng ban đầu của sản phẩm là công việc bình thường phổ biến ở mỗi lò gốm cổ Việt Nam không chỉ riêng Bát Tràng nhưng lại rất xa lạ với một số người thợ gốm phương Tây. Tuy thế, kĩ thuật này đã mất dần và hiện nay không còn mấy người thợ gốm Bát Tràng còn có thể làm được công việc này nữa. "Be chạch" cũng là một hình thức vuốt sản phẩm trên bàn xoay nhẹ đà và chủ yếu do thợ đàn ông đảm nhiệm. Người thợ "đắp nặn" gốm là người thợ có trình độ kĩ thuật và mĩ thuật cao. Có khi họ đắp nặn một sản phẩm gốm hoàn chỉnh, nhưng cũng có khi họ đắp nặn từng bộ phận riêng rẽ của một sản phẩm và sau đó tiến hành chắp ghép lại. Hiện nay theo yêu cầu sản xuất gốm công nghiệp hay mĩ nghệ, nghệ nhân gốm có thể đắp nặn một sản phẩm mẫu để đổ khuôn thạch cao phục vụ cho việc sản xuất hàng loạt. Việc tạo hình sản phẩm gốm theo khuôn in khuôn thạch cao hay khuôn gỗ được tiến hành như sau đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuôn rồi ném mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, vét đất lên lợi vành, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết đề tạo sản phẩm. Ngày nay người làng gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến kĩ thuật "đúc" hiện vật. Muốn có hiện vật gốm theo kĩ thuật đúc trước hết phải chế tạo khuôn bằng thạch cao. Khuôn có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Loại đơn giản là khuôn hai mang, loại phức tạp thì thường cớ nhiều mang, tuỳ theo hình dáng của sản phẩm định tạo. Cách tạo dáng này trong cùng một lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm giống nhau, rất nhanh và giản tiện. Ngoài ra người ta còn dùng phương pháp đổ rót đổ "hồ thừa" hay "hồ đầy" để tạo dáng sản phẩm. Bước 4 Sửa hàng mộc và nung lần 1 sơ nung Sản phẩm mộc đã định hình cần đem "ủ vóc" và sửa lại cho hoàn chỉnh. Người thợ gốm đặt sản phẩm vào mà trên bàn xoay nhẹ đà rồi vừa xoay bàn xoay vừa đẩy nhẹ vào chân vóc cho cân, dùng dùi vỗ nhẹ vào chân "vóc" cho đất ở chân "vóc" chặt lại và sản phẩm tròn trở lại gọi là "lùa". Người thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp các bộ phận của sản phẩm như vòi ấm, quai tách..., khoan lỗ trên các sản phẩm, tỉa lại đường nét hoa văn và thuật nước cho mịn mặt sản phẩm. Những sản phẩm sửa lại mà không dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bộ", phải dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bàn". Theo yêu cầu trang trí, có thể đắp thêm đất vào một vài vùng nào đó trên sản phẩm rồi cắt tỉa để tạo hình đắp phù điêu, có khi phải khắc sâu các hoạ tiết trang trí trên mặt sản phẩm... Tiến hành nung sản phẩm mộc lần 1 ở nhiệt độ 550oC cho khô và cháy hết các tạp chất hữu cơ trong đất, hàng mộc được cứng hơn để đảm bảo việc thực hiện các công đoạn tiếp theo không bị hỏng dáng sản phẩm. Bước 5 Quá trình trang trí hoa văn và tráng men Kỹ thuật vẽ Người thợ dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu... Gần đây, Bát Tràng xuất hiện kĩ thuật vẽ trên nền xương gốm đã nung sơ lần 1 hoặc kĩ thuật hấp hoa, một lối trang trí hình in sẵn trên giấy decal, nhập từ nước ngoài. Hai kiểu này tuy đẹp nhưng không phải là truyền thống của Bát Tràng. Những loại này không được coi là nghệ thuật và sáng tạo trong di sản gốm Bát Tràng, cũng như gốm Việt Nam nói chung. Trang trí hoạ tiết cần người thợ phải có con mắt thẩm mỹ cao Tráng men Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốm Bát Tràng thường chọn phương pháp tráng men trực tiếp lên trên sản phẩm mộc hoàn chỉnh. Sản phẩm mộc trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của mỗi loại men định tráng lên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm... Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men lên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men ngoài sản phẩm, gọi là "kìm men", và khó hơn cả là hình thức "quay men" và "đúc men". Quay men là hình thức tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng, vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây. Sửa hàng men Người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nung. Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành "cắt dò" tức cạo bỏ những chỗ dư thừa men, công việc này gọi là "sửa hàng men".

quy trình làm gốm sứ